Lịch sử Chùa_Tướng

Chùa Phi Tướng thuộc trong quần thể các chùa Tứ Pháp ở Thuận Thành có cùng thời điểm xây dựng. Các sách Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử lược, Lĩnh Nam chích quái, Thiền uyển tập anh, “Phong thổ Kinh Bắc”, Việt điện u linh, Đại Nam nhất thống chí đều cho rằng: Các chùa Tứ Pháp được khởi dựng ở vùng Dâu - Luy Lâu vào thế kỷ II sau Công nguyên.

Theo sách Cổ châu pháp vân bổn hạnh ngũ lục thì vào khoảng đời Ðông Tấn (317-419) có một Pháp sư tên là Tì-ni-đa-lưu-chi, người Ấn Độ, nhận thấy ở Nam Việt đã hiểu đạo Phật liền qua tìm hiểu ở chùa Phi Tướng rồi sau đó trú ở tại chùa Pháp Vân, giảng dạy Phật pháp. Và từ đó Phật giáo Việt Nam thịnh hành. Chùa Phi Tướng là nơi đầu tiên Tỳ Ni Đa Lưu Chi đặt chân đến khi vào Việt Nam nằm ở phía nam của thành Luy Lâu cổ có tên chữ là “Phi Tướng Đại Thiền Tự”.[6]

Bia Phi Tướng tự bi ký dựng vào năm Chính Hoà thứ 18 (1697), có nội dung mô tả việc trùng tu chùa[2]:

Tại xã Lạc Thổ, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, tiểu tăng là Nguyễn Đức Khang, tự Pháp Ninh, đạo hiệu Chân Kính, tiểu ni là Nguyễn Thị Thái hiệu là Diệu Xuân, trụ trì tại bản xã (gồm các thôn Thanh Hoài, Thanh Tương, Lũng Triền) ở ngôi chùa là “Phi Tướng đại thiền sự”. Trước đây có người cha đã làm phúc rất nhiều, nhưng chưa kịp lập bia đá để lại cho đời sau, nên chưa ghi lại những sự việc từ thuở ban đầu. Nay cung kính ghi lại việc như sau:

Đức Đại Thánh Pháp Lôi Phật linh ứng xuất thế, có phật tử vâng mệnh là Khánh Giác Hoà thượng Nguyễn Tôn Sinh, tự là Phúc Đức, hiệu Huệ Khánh Viên Quảng thiền sư, Bồ Tát lão ni là Vũ Thị Nhiên hiệu là Hải Thuận, Vũ Thị Hưng hiệu là Huệ Tính, Vũ Thị An hiệu là Từ Thịnh xuất gia đầu Phật, mang tiền của gia đình hưng công và khuyến giáo mọi người cùng nhau làm phúc chung xây Thượng điện, Thiêu hương, Tiền đường, Hậu đường, hai bên hành lang, gác chuông, tam quan và tạo các tượng Phật, đúc mới quả hồng chung (chuông), khánh báu, in các bản kinh để làm tài liệu tụng độ sau này. Các việc trên hoàn thành tốt đẹp, ghi vào bia đá lưu truyền muôn đời sau

Chùa còn lưu giữ được rất nhiều thư tịch cổ, giá trị gồm:

  • Sắc Phong năm thứ 4 niên hiệu Cảnh Hưng 1743
  • Sắc Phong năm thứ 44 niên hiệu Cảnh hưng 1783
  • Sắc Phong năm thứ 2 niên hiệu Minh Mạng 1821
  • Sắc Phong năm thứ 4 niên hiệu Thiệu Trị 1844
  • Sắc Phong năm thứ 3 niên hiệu Tự Đức 1850
  • Sắc Phong năm thứ 2 niên hiệu Đồng Khánh 1887

Ngoài ra, chùa còn một chiếc chuông có niên đại Minh Mạng thứ 19 (1839) và năm bia cổ được khắc vào khoảng thời gian cuối Lê đầu Nguyễn (tính cả tấm bia năm Chính Hòa thứ 18 - 1697). Bia Hậu đường bi ký (năm Tự Đức thứ 25 - 1873) ghi: "Nguyễn Văn Trường người xã Gia Lâm, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An cúng 70 quan tiền, 200 bát gạo, 1 sào ruộng, lại cúng ngôi nhà trị giá 500 quan tiền để chuyển làm hậu đường thờ Phật".

Như vậy, chùa Tướng được xây dựng lớn vào cuối thế kỷ XVII nhưng đến giữa thế kỷ XIX đã đổ nát hư hỏng nhiều. Bia Ký kỵ bi lý khắc ngày 16 tháng 12 năm Tự Đức thứ 8 (1855) viết: "Chùa Phi Tướng ở phía Nam thành Luy Lâu, nguyên phụng sự Đại vương Phật Pháp Lôi, ba xã thôn cùng phụng thờ, qua nhiều năm đổ nát". Hoặc tấm bia có niên đại ngày 11 tháng 2 năm Tự Đức thứ 8 (1855) cũng ghi: "Nay có Nguyễn Thị Tân, người xã Lũng Khê bỏ ra 50 quan tiền và 8 sào ruộng dùng làm hương hỏa". Cuối cùng còn 1 bia phần niên đại bị đục (có thể là bia thời Tây Sơn) ghi việc xây thượng tòa, tam quan, tu sửa tượng Nam Tào, Bắc Đẩu...[7]